Quá trình hình thành và phát triển hợp tác xã trên thế giới đã trải qua hơn 200 năm. Theo báo cáo năm 2021 của Liên đoàn Hợp tác xã quốc tế (ICA), hợp tác xã liên tục phát triển ở các nước phát triển và đang phát triển; đến nay có hơn 3 triệu hợp tác xã, đóng góp hơn 10% GDP và bảo đảm đời sống cho hơn một nửa dân số thế giới; chẳng hạn: Cộng hòa Liên bang Đức, hầu hết nông dân là thành viên hợp tác xã, sản xuất từ 30% - 90% sản lượng lương thực, thực phẩm, chiếm 35% thị phần tín dụng nông thôn; Hà Lan có 25,5 triệu thành viên hợp tác xã, gấp 1,5 lần dân số, đóng góp 18% GDP; Nhật Bản, hợp tác xã có 65 triệu thành viên, gần 50% hộ gia đình ở Nhật Bản sử dụng dịch vụ của hợp tác xã; Trung Quốc có 30.287 hợp tác xã, thu hút hơn 80% hộ nông dân tham gia thành viên; Thái Lan có 6.626 hợp tác xã nông nghiệp và phi nông nghiệp, đóng góp 13% GDP; Hoa Kỳ có 50.000 hợp tác xã, chiếm 25% thị phần nông sản chế biến và tiêu thụ,...

Tại cuộc họp Đại hội đồng Liên hợp quốc (năm 2003) và Thông điệp gửi phong trào hợp tác xã quốc tế, Tổng Thư ký Liên hợp quốc đánh giá “Hợp tác xã là một trào lưu có tổ chức lớn nhất của xã hội văn minh, đóng góp quan trọng trong việc đáp ứng nguyện vọng, nhu cầu của con người trong những nỗ lực phát triển kinh tế cân bằng sâu rộng ở các quốc gia nói riêng và thế giới nói chung”.

Thực tiễn phát triển hợp tác xã trên thế giới, kể cả hơn 2 năm có đại dịch Covid-19 cho thấy một số vấn đề áp dụng vào thực tiễn Việt Nam: Hầu hết hộ nông dân tham gia thành viên hợp tác xã; các hợp tác xã đều thực hiện đúng bản chất, giá trị và nguyên tắc có tính phổ biến trong hoạt động và quản trị, đó là tự nguyện, tự lực, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng và đoàn kết, mỗi thành viên là một phiếu bầu, quan tâm đến cộng đồng; vai trò của hợp tác xã là chủ thể quan trọng đóng góp cho mục tiêu phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo, bình đẳng giới, tạo việc làm, phát triển kinh tế bao trùm, chuyển đổi kinh tế và lao động phi chính thức sang chính thức, thích ứng biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, xây dựng xã hội học tập; Chính phủ các nước thường xuyên hoàn thiện khung khổ pháp luật và áp dụng chính sách hỗ trợ hợp tác xã phát triển, cùng với củng cố Liên minh hợp tác xã quốc gia để thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ, chăm lo hợp tác xã thành viên.

Ở nước ta, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã với nhiều hình thức hợp tác đa dạng (hợp tác xã, tổ hợp tác, liên hiệp hợp tác xã...) dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết và hợp tác rộng rãi những người lao động, hộ sản xuất, kinh doanh, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đưa lý luận phát triển hợp tác xã vào nước ta và thường xuyên quan tâm chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam ngày 11/4/1946, Người viết: 

“Nông dân giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh thì cần phải có hợp tác xã… Nói tóm lại, hợp  tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh, thì khó nhọc ít mà ích lợi nhiều”

Ngày 11/4/1964, trong thư gửi Đại hội hợp tác xã và đội sản xuất nông nghiệp tiên tiến miền núi và trung du, Người dặn dò “Hợp tác xã phải được củng cố, tức là làm cho xã viên có tinh thần làm chủ, làm cho ban quản trị được vững vàng và có năng lực, phải thực hành dân chủ, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, phải đoàn kết chặt chẽ trong hợp tác xã, làm tốt công tác cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và không ngừng nâng cao trình độ chính trị và văn hóa cho cán bộ và xã viên”.

Kinh tế tập thể, hợp tác xã đã hình thành và phát triển gần 70 năm, đóng góp quan trọng sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta: Thời kỳ 1955-1986, hợp tác xã phát triển nhanh về số lượng ở cả địa bàn nông thôn và thành thị; thời kỳ 1986-2002, khu vực nông nghiệp, nông thôn thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động và cơ chế quản lý hợp tác xã chưa được đổi mới, số lượng và hiệu quả kinh tế hợp tác xã giảm thấp do phải củng cố và tổ chức lại phù hợp; thời kỳ 2002-2021, kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát triển về số lượng, chất lượng và hiệu quả hoạt động. Trải qua các thời kỳ phát triển, bản chất, giá trị và các nguyên tắc hoạt động, vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã phù hợp với chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và quy định của Hiến pháp

Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo… Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu  thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật

Theo số liệu thống kê, nước ta hiện nay có 17,3 triệu hộ ở địa bàn nông thôn, trong đó 9 triệu hộ nông dân có diện tích canh tác bình quân ở mức thấp (đồng bằng sông Cửu Long 0,71 ha, đồng bằng sông Hồng 0,22 ha, duyên hải miền trung 0,01 ha, bình quân 2,5 thửa ruộng/hộ), vốn và tài sản còn hạn chế, cho nên hộ nông dân cần phải liên kết, hợp tác tổ chức sản xuất, kinh doanh theo mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã; kể cả hàng triệu hộ cá thể khác ở địa bàn nông thôn và thành thị cũng cần phải liên kết, hợp tác để sản xuất, kinh doanh thì mới có hiệu quả bền vững. Căn cứ đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, thực tiễn phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam và các nước khác, có thể khẳng định:

Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là tất yếu khách quan, có ý nghĩa chiến lược và lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Qua 20 năm (2002-2021) thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, chúng ta đạt được kết quả: Kinh tế tập thể, hợp tác xã có bước phát triển cả số lượng và chất lượng, khắc phục tình trạng yếu kém kéo dài;

Bộ phận lớn hợp tác xã cung ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra cho thành viên, giảm chi phí sản xuất và ổn định hợp đồng tiêu thụ sản phẩm; kinh tế tập thể, hợp tác xã đã đóng góp tăng trưởng kinh tế bền vững, kiềm chế lạm phát, tăng kim ngạch xuất khẩu, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, nhất là kinh tế nông nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm, thích ứng biến đổi khí hậu, hướng đến phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn.

Có nhiều nguyên nhân và kinh nghiệm được rút ra, trong đó nhận thức của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về bản chất, cơ chế và lợi ích của hợp tác xã mang lại cho người dân và nền kinh tế được nâng lên, sự chủ động và tích cực của cấp ủy, chính quyền địa phương trong triển khai Nghị quyết phù hợp với thực tiễn như Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Đồng Nai, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Ninh Bình, Sơn La...; các địa phương đều có nhiều mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả với vai trò tư vấn và hỗ trợ nòng cốt của hệ thống Liên minh hợp tác xã Việt Nam, tác động lan tỏa như Hợp tác xã Sinh Dược-Ninh Bình, Hợp tác xã Mỹ Đông-Đồng Tháp, Hợp tác xã Mỹ Tịnh An-Tiền Giang, Hợp tác xã Xuyên Việt-Hải Dương, Hợp tác xã Ái Nghĩa-Quảng Nam...

Tuy vậy, kinh tế tập thể, hợp tác xã ở nước ta phát triển chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, đang có những tồn tại, bất cập, hạn chế cần được quan tâm, giải quyết: Tỷ lệ lớn hộ cá thể ở địa bàn nông thôn chưa tham gia hợp tác xã, tổ hợp tác; một bộ phận lớn hợp tác xã có quy mô nhỏ, vốn ít, năng lực quản trị hạn chế, liên kết thành viên còn thấp, chưa có uy tín và thương hiệu trên thị trường; đóng góp cho phát triển nền kinh tế-xã hội còn hạn chế; đang có một số “điểm nghẽn” trong nhận thức và hiểu biết chưa đúng về cơ chế hoạt động và vai trò của hợp tác xã, pháp luật và chính sách hỗ trợ cho kinh tế tập thể, năng lực quản trị của hợp tác xã còn yếu kém. Một số cấp ủy, chính quyền địa phương, bộ ngành chưa thực sự quan tâm đến kinh tế hợp tác và hợp tác xã.

Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong thời kỳ 2021-2030 và tầm nhìn 2045 phải phù hợp với đường lối, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, khắc phục các “điểm nghẽn” đang kìm hãm sự phát triển trong bối cảnh và điều kiện mới.

  • Về quan điểm: Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là tất yếu khách quan, có ý nghĩa chiến lược, lâu dài, là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước, là thành phần kinh tế quan trọng, phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với kinh tế nhà nước giữ vai trò nền tảng trong nền kinh tế-xã hội ở nước ta, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với các tầng lớp nhân dân; tiếp tục phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn nông thôn và thành thị, theo phương châm tích cực và vững chắc, xuất phát từ thực tiễn, tránh duy ý chí, nóng vội, kinh tế tập thể, hợp tác xã giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế nông nghiệp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật và chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức đoàn thể, trong đó có vai trò nòng cốt của hệ thống Liên minh hợp tác xã Việt Nam.
  • Về mục tiêu: Kinh tế tập thể, hợp tác xã phát triển nhanh, bền vững, là phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh quan trọng, đóng vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân, nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, mang lại lợi ích kinh tế và phúc lợi xã hội ngày càng cao cho thành viên, thu hút hầu hết hộ cá thể ở địa bàn nông thôn và thành phần kinh tế khác tham gia kinh tế tập thể hợp tác xã.
  • Về nhiệm vụ và giải pháp, cần phải thực hiện đồng bộ và kịp thời nhưng tập trung vào một số giải pháp có tính đột phá:
  • Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cơ quan, tổ chức và nhân dân về bản chất, cơ chế hoạt động, vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có quy định yêu cầu các cơ sở đào tạo trong nền kinh tế quốc dân và trường bồi dưỡng cán bộ đào tạo kiến thức về kinh tế tập thể, hợp tác xã.
  • Hai là, hoàn thiện thể chế, tập trung sửa đổi các quy định bất cập của Luật hợp tác xã, quy định cơ chế hoạt động của hợp tác xã là pháp nhân kinh tế tương tự như doanh nghiệp, đảm bảo dễ hiểu, dễ áp dụng như đơn giản thủ tục thành lập và hoạt động, giảm bộ máy quản trị, quy định hợp lý tỷ lệ vốn góp và sử dụng dịch vụ nội bộ phù hợp đối với từng loại hình hợp tác xã nông nghiệp và phi nông nghiệp để tăng khả năng tự chủ trong huy động nguồn lực; quy định cơ chế quản trị phù hợp đối với từng loại hình hợp tác xã nông nghiệp và phi nông nghiệp, hợp tác xã sản xuất, kinh doanh phân tán hay tập trung, quy định cụ thể các chính sách hỗ trợ cùng với nguyên tắc bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước; đổi mới quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, hợp tác xã theo hướng các bộ, ngành tập trung vào việc ban hành cơ chế, chính sách, tạo môi trường phát triển cho kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
  • Ba là, Nhà nước ban hành chương trình thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã bằng các chính sách cụ thể và bố trí nguồn lực thực hiện để dẫn dắt, huy động các nguồn lực khác, tập trung đào tạo, huy động nhân lực chất lượng cao cho hợp tác xã (đào tạo nghề quản trị hợp tác xã và tay nghề sản xuất, kinh doanh cho thành viên và người lao động gắn với sản phẩm của hợp tác xã, thu hút lao động trẻ được đào tạo chuyên môn, khởi nghiệp theo mô hình hợp tác xã); ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số, tiếp cận vốn tín dụng, xây dựng thương hiệu, chính sách thuế (miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho hợp tác xã trong 3-5 năm, áp dụng phù hợp đối với từng loại hình hợp tác xã; không quy định thu thuế thu nhập cá nhân đối với phần lợi tức được chia từ vốn góp của thành viên hợp tác xã để khuyến khích hộ cá thể tham gia hợp tác xã), chính sách tín dụng (Ban hành quy định tín dụng nội bộ hợp tác xã, cho phép Quỹ tín dụng nhân dân mở rộng cho vay ngoài thành viên, nhất là ở địa bàn nông thôn; bố trí gói tín dụng cho hợp tác xã vay đầu tư cơ sở hạ tầng; quy định mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với hợp tác xã, thành viên hợp tác xã, phù hợp với mặt bằng chi phí sản xuất hiện nay; cấp bổ sung vốn cho các Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã Trung ương và địa phương).
  • Bốn là, thực hiện đổi mới, củng cố tổ chức, nâng cao năng lực và hiệu quả của hệ thống Liên minh hợp tác xã Việt Nam để phát huy có hiệu quả vai trò nòng cốt, trách nhiệm chính trong xây dựng, thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các tổ chức kinh tế hợp tác với thành viên.
  • Năm là, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc cần có chương trình kế hoạch chỉ đạo, lãnh đạo, tạo điều kiện để kinh tế hợp tác, hợp tác xã phát triển đúng hướng, hiệu quả và bền vững.
  • Chúng ta tin tưởng rằng Nghị quyết Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương lần này và Luật hợp tác xã (bổ sung, sửa đổi) sẽ là những quan điểm, giải pháp tốt và đồng bộ để kinh tế hợp tác và hợp tác xã có điều kiện phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.
NGUYỄN XUÂN PHÚC, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 

Tin đã đăng