Nghề mộc: là một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời nhất. Nghề Mộc ra đời gắn liền với các hoạt động như làm nhà, làm đồ gỗ gia dụng, đóng thuyền, bè, phương tiện sản xuất phục vụ cho cuộc sống. Đi tất cả các vùng miền trong tỉnh Nghệ An, nơi đâu cũng có nghề mộc, có thợ mộc. Nghề mộc đã tổ chức thành các phường hội và làm ăn rất thịnh vượng. Trong đó, có những làng nổi tiếng như: làng Nam Hoa (nay thuộc xã Nam Hoành) huyện Nam Đàn: Đồn rằng thợ mộc Nam Hoa, làm cửa làm nhà, cầu quán khéo tay!... Tài nghệ của thợ mộc nơi đây đã được ghi chép lại trong Nam Hoa mộc tượng ký. Hay như câu: Thợ cưa Chân Lộc thợ mộc Xa Lang. Chân Lộc là huyện Nghi Lộc xưa, còn Xa Lang là một xã thuộc huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Nghi Lộc xưa nổi tiếng với nghề đóng tàu thuyền ở làng Trung Kiên (nay thuộc Thị xã Cửa Lò).
Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt sợi: là nghề thủ công có từ lâu đời ở xã Đặng Sơn - Đô Lương. Với lợi thế từ những bãi cát phù sa, màu mỡ từ dòng Lam giang, Đặng Sơn đã phát triển nghề thủ công truyền thống: trồng dâu nuôi tằm. Về Đặng Sơn vào mùa xuân hè ta sẽ bắt gặp những cánh đồng dâu xanh tươi, bát ngát; tiếng xe quay sợi của những chị, những cô gái nơi đây.Dâu thường được trồng vào mùa xuân khoảng tháng giêng, tháng hai âm lịch. Đến tháng 5, tháng 6 hái lá về nuôi tằm. Dâu nuôi tằm thường là giống dâu nhiều lá, xanh, tốt. Tằm ăn no nhả kén, sau đó người nuôi tằm, quay tơ, lấy sợi, làm hàng hóa bán ra thị trường. Sợi tơ tằm chủ yếu phục vụ cho nghành dệt may trong và ngoài nước.
Nghề rèn: Nhắc đến nghề rèn phải nói đến nghề rèn ở làng Nho Lâm một thuở (Làng Nho Lâm xưa nay được tách thành ba xã: Diễn Phú, Diễn Lộc, Diễn Thọ thuộc huyện Diễn Châu). Ở Nho Lâm, ngay từ thời văn hóa Đông Sơn, cư dân nơi đây đã biết luyện sắt từ quặng. Dấu vết để lại khá đậm nét đó là những lớp xỉ sắt chất thành đống, có chỗ cao tới 6 - 7m lẫn với than gỗ, tập trung nhất là ở những chỗ gần kênh đào, sông và bến đò thuộc xã Diễn Thọ. Quặng này có khả năng lấy từ núi sắt ở huyện Nghi Lộc cách khoảng 15km, dưới chân núi có đền thờ thần Thiết sơn. Hiện nay trong nhà dân còn giữ nhiều hòn sắt lấy ở lò luyện ra chưa sử dụng. Những hòn sắt này có hình bầu dục nặng từ 30 - 40kg rất giống với những hòn sắt mà châu Âu gọi là sắt xốp, Trung Quốc gọi là thục thiết, người Nho Lâm gọi là hòn chai hay hòn gối. Ở đây cũng phát hiện được một số dụng cụ dùng trong luyện kim như mực lò, ống bễ, ống trám, ống nóng, gương thụt, chồng, bươi, v.v. Đáng chú ý ở đây có một số sản phẩm lưỡi cày sắt có kiểu dáng khác nhau khá gần gũi với kiểu dáng một số lưỡi cày đồng phát hiện trong các di tích khảo cổ. Đi cùng với những thăng trầm của lịch sử, cư dân Nho Lâm từ thế hệ này đến thế hệ khác vẫn duy trì và phát triển nghề luyện sắt, nghề rèn truyền thống. Đến thời kỳ thuộc pháp, khi nền kinh tế tư bản tràn vào, nghề rèn ở Nho Lâm không còn đất dụng võ nữa nên ngưng lại và giải thể dần... Các sản phẩm làm từ nghề rèn chủ yếu là những công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp như dao, cuốc, thuổng, liềm, cày…
Nghề mây tre đan: Xuất phát từ nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, đồng thời tận dụng quỹ thời gian nông nhàn do đặc trưng của nghề sản xuất nông nghiệp đem lại, nghề mây tre đan ra đời. Ở Nghệ An, hầu hết làng quê nào cũng có nghề mây tre đan, nhưng phổ biến nhất là những vùng quê thuần nông, ven các sông suối, trong đó tiêu biểu các làng quê như: Yên Hòa, Trung Mỹ, Yên Duệ, Yên Xá, Mỹ Lộc thuộc huyện Nghi Lộc; làng Xuân Nha huyện Hưng Nguyên. Từ cây tre, qua bàn tay khéo léo của người thợ, tre được chẻ (róc tre), vót nan, chẻ lạt, đánh vòng, đan. Ban đầu chỉ là những vật dụng đơn giản dùng trong gia đình như thúng, mẹt, rổ, rá, dần, sàng… dần dần nâng lên như chõng, giường, cũi, bàn, ghế .v.v. từ những sản phẩm thủ công giản đơn, dần dần nâng cao tính thẩm mỹ trong các sản phẩm. Mây tre đan trở thành sản phẩm hàng hóa trao đổi, bán ra thị trường.
Nghề làm nước mắm: Nằm trên địa bàn huyện Diễn Châu, Vạn Phần là làng nghề làm nước mắm có truyền thống nổi tiếng từ vài thế kỉ trước. Sản phẩm của làng nghề đã từng có vinh dự là đặc sản “Tiến Vua”. Không ai rõ nghề làm nước mắm xuất hiện tại đất Vạn Phần xưa tự bao giờ, chỉ biết rằng, nơi khởi nguồn được xác định là ở xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu. Những tổ nghề từ xa xưa đã biết tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào từ biển cả, kết hợp với phương pháp ủ chượp truyền thống để cho ra loại nước mắm thơm ngon. Dần dần, làm nước mắm trở thành nghề truyền thống của địa phương theo hình thức cha truyền con nối. Nguyên liệu chế biến nước mắm Vạn Phần thường là cá nục, cá thu, cá cơm, cá hồi, cá vảnh, cá trích được chọn lọc một cách kỹ lưỡng. Sau khi đánh bắt từ ngoài khơi về, cá được rửa sạch rồi đem trộn muối theo tỷ lệ 4:1 (cứ một tạ cá thì trộn khoảng 25 kg muối). Muối nguyên liệu thường là muối cũ, được để qua thời gian dài nhằm giảm bớt độ chát; đồng thời, phải sạch, không lẫn bụi bẩn. Việc chọn muối khá quan trọng, bởi nếu lẫn tạp chất, nước mắm thành phẩm sẽ có vị chát, không ngon. Nước mắm thường dùng để chấm dưa, chấm rau; dùng kho cá, kho thịt. Nhờ có nghề làm nước mắm mà Vạn Phần trở thành một làng giàu có, khá giả…
Theo Làng nghề Việt