Làng nghề mây tre đan Thượng Hiền (Kiến Xương) đang vào thời kỳ phát triển rực rỡ, người dân phấn khởi vì có thu nhập cao, “sống khỏe” từ nghề. Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào thực trạng phát triển của làng nghề lại thấy những bất cập cần sớm được tháo gỡ để nghề và làng nghề ở đây phát triển bền vững.

Chưa bao giờ người dân ở làng nghề mây tre đan Thượng Hiền dám nghĩ có thể làm giàu với nghề thủ công truyền thống của địa phương. Nhưng bây giờ, nghề đan mây đã mang lại thu nhập rất cao cho bà con. Nhiều lao động trẻ từng bỏ nghề đi vào nhà máy, xí nghiệp nay lại trở về làng gắn bó với nghề cha truyền con nối hàng trăm năm. 

Bà Phạm Thị Nhẫn, thôn Trung Quý cho biết: Những lao động cao tuổi như chúng tôi vừa tranh thủ làm đồng áng và trông cháu vừa đan lát mỗi tháng cũng có thu nhập 5 - 6 triệu đồng/người. Còn lao động trẻ làm nhanh nhẹn và chuyên tâm thì thu nhập bình quân hơn 10 triệu đồng/người/tháng. Với mức thu nhập như hiện nay, bà con làng nghề rất phấn khởi, nhà nào cũng huy động nhân lực để làm nghề.

Toàn bộ sản phẩm của làng nghề mây tre đan Thượng Hiền đều được 3 doanh nghiệp và 8 cơ sở kinh doanh trong xã bao tiêu. 

Anh Phạm Ngọc Tấn, Giám đốc Công ty Cổ phần Mây song Dũng Tấn ở thôn Tây Phú cho biết: Sản phẩm mây đan thủ công của làng nghề có chất lượng và mỹ thuật rất cao nên đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại ở một số địa phương khác trong cả nước cũng như hàng của Trung Quốc. Chúng tôi đang cung cấp khoảng 50.000m2 sản phẩm/năm cho 30 đối tác là doanh nghiệp, đại lý thương mại, doanh thu đạt 15 tỷ đồng/năm.

Sản phẩm của làng nghề mây tre đan Thượng Hiền làm ra ngày càng được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng. Mặc dù toàn xã có gần 1.500 hộ với khoảng 4.000 lao động tham gia nghề đan mây nhưng sản lượng hàng hóa làm ra vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. 

Anh Phạm Văn Dinh, Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân mây tre đan mỹ nghệ xuất khẩu Dinh Doanh ở thôn Văn Lăng cho biết: Mỗi năm sản lượng hàng hóa doanh nghiệp trực tiếp sản xuất và bao tiêu cho bà con trị giá khoảng 20 tỷ đồng. Thị trường chính gồm Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương và xuất khẩu đi châu Âu, sức tiêu thụ ngày càng tăng nên chúng tôi phải liên kết, phát triển thêm hàng trăm cơ sở sản xuất vệ tinh tại các huyện trong tỉnh với hơn 1.000 lao động.

Nghề mây tre đan ở Thượng Hiền phát triển mạnh mẽ trong 5 năm trở lại đây. Mỗi năm làng nghề mang về cho địa phương giá trị trên 80 tỷ đồng, bằng 46% tổng giá trị sản xuất của toàn xã. 

Ông Phạm Xuân Hợp, Chủ tịch UBND xã cho biết: Với hiệu quả kinh tế cao như vậy, không chỉ cấp ủy, chính quyền địa phương mong muốn mà các hộ dân tha thiết mở rộng quy mô làng nghề. Tuy nhiên, cái khó hiện nay đó là công tác xử lý môi trường của làng nghề đang gặp khó khăn. Quá trình sơ chế nguyên liệu, bảo quản sản phẩm phải sử dụng hóa chất tẩy rửa, các hộ dân vẫn xả thải tự do trong khu dân cư, chưa có hệ thống thu gom, công trình xử lý dẫn tới nguy cơ ô nhiễm môi trường nặng nề nếu quy mô sản xuất lớn hơn. Địa phương đã quy hoạch quỹ đất phát triển làng nghề nhằm đưa các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có xả thải ra hoạt động tập trung, thuận lợi cho việc quản lý môi trường nhưng vẫn chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Vì thế, làng nghề vẫn phát triển cầm chừng.

Dẫu phát triển mạnh nhưng năng suất lao động của các doanh nghiệp, cơ sở, hộ gia đình ở làng nghề Thượng Hiền còn thấp bởi các công đoạn sản xuất phần lớn dựa vào lao động thủ công, rất hạn chế trong áp dụng máy móc công nghệ. 

Anh Phạm Văn Dinh, Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân mây tre đan mỹ nghệ xuất khẩu Dinh Doanh cho biết thêm: Những tháng đầu năm là dịp tiêu thụ hàng hóa tốt nhất trong năm. Nhưng với điều kiện thời tiết nồm ẩm rất dễ gây nấm mốc nguyên liệu, sản phẩm; trong khi đó, các cơ sở sản xuất không có điều kiện đầu tư kho, máy sấy cũng ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất và bảo quản sản phẩm.

Điều làm người dân làng nghề mây tre đan Thượng Hiền trăn trở nhất hiện nay là nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất rất bị động và không bền vững. 100% nguyên liệu mây, song của làng nghề đều thu mua của nông dân một số tỉnh miền núi phía Bắc và Bắc miền Trung khai thác từ rừng và một phần nhập khẩu từ Lào. 

Anh Phạm Ngọc Tấn, Giám đốc Công ty Cổ phần Mây song Dũng Tấn chia sẻ: Việc bà con đi rừng theo thời vụ cộng với khai thác tự nhiên tận thu cũng đến lúc cạn kiệt, không có vùng nguyên liệu trồng và chăm sóc là những bất cập khiến cho nghề đan của bà con khó đi được đường dài cũng như ít có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất.

Theo Báo Thái Bình